Thứ nhất: Về “hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe người để lại di sản”.
Đây là trường hợp người thừa kế đã có hành vi nghiêm trọng – hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người khác, chẳng hạn người vợ do ghen tuông đã dùng dao đâm chết chồng, như vậy pháp luật không cho phép người vợ được hưởng di sản thừa kế của chồng, người con trong lúc tức giận đã giết chết cha mình, do đó cũng không được quyền hưởng di sản thừa kế của cha để lại…
Về mặt chủ quan, hành vi tước đoạt tính mạng người khác phải được thực hiện với lỗi cố ý, nghĩa là người phạm tội nhận thức được rõ hành vi vi phạm của mình là nguy hiểm, sẽ gây hậu quả chết người nhưng vẫn mong muốn hoặc nhận thấy trước hậu quả nhưng vẫn để mặc cho nó xảy ra. Như vậy nếu hành vi trên chỉ là vô ý làm chết người thì người phạm tội không bị tước quyền thừa kế di sản của người mà họ vô ý làm chết, việc xem xét lỗi cố ý hay vô ý trong trường hợp này có ý nghĩa quyết định đến việc người đó có được hưởng di sản hay không.
Cơ sở để tước quyền hưởng di sản của người thừa kế là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận bằng một bản án hình sự trong đó kết án họ về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe người khác theo Bộ luật Hình sự 1999. Và bản án đó chỉ đó chỉ được coi là căn cứ để tước quyền hưởng di sản của một người khi đã có hiệu lực pháp luật, bởi lẽ “Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Tòa án” (Điều 10 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2004). Nói cách khác, dù người thừa kế có hành vi nói trên nhưng không bị kết án thì họ vẫn được hưởng di sản.
Thứ hai: “hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản”. Người có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản và đã bị kết án về một trong các hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế di sản của người đã bị ngược đãi, bị hành hạ sau khi chết.
Hành vi ngược đãi là hành vi đối xử tàn nhẫn, tồi tệ, đối với người thân, người lệ thuộc mình thông qua việc đánh đập, bỏ đói, giam hãm, bắt lao động quá nặng nhọc, không cho học hành trong khi người đó có có đủ điều kiện để đối xử tốt hơn… Hành vi hành hạ là hành vi đối xử tàn ác, gây đau đớn về thể xác, tinh thần cho người khác, đôi khi là sự ức hiếp, làm nhục đối với người lệ thuộc mình khiến họ bị giày vò, đau khổ….
Về mặt chủ quan, cấu thành tội phạm không đòi hỏi hành vi đối xử tàn ác phải gây ra hậu quả thương tích hay tổn hại cho sức khỏe của người để lại di sản, những hành vi trên đương nhiên phải là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp, không thể là vô ý, bản thân người có hành vi hành hạ, ngược đãi khi thực hiện những hành vi đó đã nhận thức rõ hành vi của mình, thấy trước được hậu quả của hành vi đó nhưng vẫn mong muốn hay để mặc nó xảy ra.
Cơ sở để không cho người có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản được hưởng thừa kế là việc quy định hành vi ngược đãi phải có tính chất nghiêm trọng, thì cơ sở để tước quyền thừa kế là hành vi đó đã bị kết án bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật nên bản thân việc bị kết án đó đã xác định tính nghiêm trọng của hành vi này.
Thứ ba: “Hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản”. Danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội, dựa trên những giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp, là cái mang lại sự coi trọng của xã hội, của tập thể đối với một cá nhân. Nhân phẩm là phẩm giá, là phẩm chất và giá trị của con người.
Hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người khác thường thông qua việc dùng lời lẽ, hành vi, văn bản, hình ảnh bịa đặt mang tính chất chửi mắng, miệt thị, sỉ nhục, xúc phạm, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm, hạ thấp danh dự, gây tổn thương nghiêm trọng hoặc hây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Cơ sở để tước quyền thừa kế của người có hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người để lại di sản là một bản án đã có hiệu lực pháp luật kết án về các hành vi trên. Người đã bị kết án về hành vi vu khống, làm nhục người để lại di sản thì đương nhiên không có quyền nhận di sản thừa kế của người đó để lại, đây cũng là một quy định phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức xã hội.
2. Điểm b Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005: “b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”
Người thừa kế bị coi là có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản là người được Luật Hôn nhân và gia đình xác định có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó cho dù bản thân có đầy đủ khả năng, điều kiện để thực hiện. Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng là một trường hợp đặc biệt trong nghĩa vụ nuôi dưỡng, là việc thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng của một người đối với một người không chung sống với mình. Nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân thân của cá nhân, không thể chuyển dịch cho người khác và cũng không thể phân chia như các nghĩa vụ khác.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì người thừa kế được xác định là có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại thừa kế trong những trường hợp sau đây:
Trường hợp một, người thừa kế là con. Tại Khoản 2 Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Con có nghĩa vụ và có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật...”.
Trường hợp hai, người thừa kế là cha mẹ. Khoản 1 Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.
Trường hợp ba, người thừa kế là anh, chị hoặc em. Theo quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”.
Trường hợp bốn, người thừa kế là cháu. Khoản 2 Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng xác định: “Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại”.
Trường hợp năm, người thừa kế là ông bà. Khoản 1 Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu”
Trường hợp sáu, người thừa kế là vợ hoặc chồng. Giữa vợ và chồng tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân thực tế được Tòa án thừa nhận. Vợ chồng đối với nhau không tồn tại nghĩa vụ nuôi dưỡng mà Luật xác định giữa vợ và chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau khi họ ly hôn, nếu một bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng. Trong trường hợp vợ chồng đã ly hôn bằng một bản án có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì bên còn lại không còn là người thừa kế theo pháp luật của người đã chết, chỉ có thể là người thừa kế theo di chúc. Nếu sau ly hôn, một bên đã không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho bên kia thì sẽ không được hưởng di sản theo di chúc của bên còn lại khi người đó chết.
3. Điểm c Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005: “c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng”
Người thừa kế khác được hiểu là người thừa kế theo di chúc hoặc người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
Do mưu đồ chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền hưởng. Một người thừa kế đã có hành vi cố ý giết người thừa kế khác và đã bị kết án về tội cố ý giết người. Tuy nhiên cần phải phân biệt người có hành vi vô ý làm chết người với hành vi cố ý giết người thừa kế khác. Một người chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người thừa kế khác thì không bị tước quyền hưởng di sản của người để lại di sản.
Trong trường hợp này, người thừa kế phạm tội chỉ bị tước quyền hưởng di sản nếu hành vi phạm tội của họ chứa đựng động cơ là nhằm để hưởng phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng. Nhưng một người chỉ bị kết án về hành vi cố ý giết người thừa kế khác mà không nhằm mục đích chiếm đoạt phần di sản của người thừa kế đó được hưởng thì không bị tước quyền thừa kế.
Hành vi xâm phạm tính mạng người thừa kế khác đòi hỏi phải với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản của người để lại di sản, khi đó người có hành vi trên mới bị pháp luật tước quyền thừa kế.
4. Điểm d Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005
“d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”.
Thứ nhất là hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Lừa dối đối với người để lại di sản là việc cung cấp một thông tin sai sự thật làm cho người để lại di sản tin vào thông tin đó mà lập một di chúc trái với ý nguyện đích thực của mình. Theo quy định của điều luật trên thì hành vi lừa dối phải chứa đựng động cơ là nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chỉ của người để lại di sản thì người có hành vi lừa dối mới không được quyền hưởng di sản thừa kế.
Hành vi cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc là hành vi tác động đến tâm lý, tinh thần của người để lại di sản buộc họ phải lập di chúc định đoạt di sản trái với ý nguyện đích thực của mình, cưỡng ép thường là việc dựa vào hoàn cảnh đặc biệt của người lập di chúc để dồn ép người đó miễn cưỡng lập di chúc. Hành vi cưỡng ép có thể chuyển hóa thành đe dọa, đôi khi ranh giới giữa sự đe dọa và cưỡng ép rất khó phân biệt, nhưng có thể thấy hành vi đe dọa có tính chất nghiêm trọng hơn cưỡng ép, ngăn cản. Đe dọa là sự tác động làm cho phía bên kia sợ hãi, “đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” (Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Thứ hai là giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Pháp luật thừa kế quy định chỉ có người lập di chúc mới có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc (Điểu 662 Bộ luật Dân sự năm 2005) nên những người khác không có quyền này và nếu thực hiện những hành vi trên nhằm mục đích hưởng di sản thì sẽ không được quyền hưởng di sản của người lập di chúc.
Hành vi giả mạo di chúc là việc lập di chúc theo ý chí của mình nhằm thay thế di chúc của người để lại di sản hoặc khiến người khác tưởng lầm rằng người để lại di sản có để lại di chúc. Về hành vi thay thế di chúc trở thành hành vi kép, bao gồm cả hành vi hủy di chúc và hành vi giả mạo di chúc. Cũng giống như việc lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, hành vi giả mạo di chúc cũng khiến cho di chúc đó bị vô hiệu, di sản được chia thừa kế theo pháp luật.
Hành vi sửa chữa di chúc mà người để lại di sản đã lập là hành vi của một người trong việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc mà người để lại di sản đã lập. Với mục đích nhằm hưởng phần di sản nhiều hơn so với phần di sản mà người lập di chúc đã định đoạt cho mình nhằm hưởng toàn bộ di sản của người lập di chúc nên dù đã có tên trong di chúc người thừa kế này vẫn thực hiện hành vi nói trên. Đây là hành vi xâm phạm đến ý chí tự nguyện của người lập di chúc và xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của những người thừa kế khác. Vì thế, người có hành vi này sẽ không được quyền hưởng di sản.
Hành vi hủy di chúc mà người để lại di sản đã lập là hành vi dùng thủ đoạn tác động đến di chúc, khiến di chúc của người để lại di sản không còn tồn tại, bị phá hủy hoàn toàn, không còn nguyên vẹn, không thể khôi phục được trạng thái ban đầu. Thông thường, người có hành vi hủy di chúc là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc nhưng trong di chúc đó họ không có tên trong số những người được hưởng di sản theo di chúc. Vì vậy, họ hủy di chúc nhằm để việc thừa kế được giải quyết theo pháp luật và họ sẽ được hưởng phần di sản theo luật định.
Trên đây là các nội dung tư vấn của Luật Huy Thành để Quý Khách hàng tham khảo. Các vấn đề khác cần tham vấn hoặc hỗ trợ pháp lý, đề nghị Quý Khách hàng liên hệ với Luật Huy Thành qua Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900 6179 hoặc qua mobile để yêu cầu dịch vụ của Luật sư Nguyễn Văn Thành - Luật sư Giỏi tại Hà Nội: 0909 763 190.
Bạn tham khảo bài viết liên quan TẠI ĐÂY