Trả lời:
Chào bạn, Tổng đài tư vấn pháp luật – Công ty Luật Huy Thành cảm ơn sự quan tâm và tham vấn từ bạn. Với thắc mắc nêu trên, Tổng đài xin tư vấn cho bạn như sau:
Điều 229. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy
1. Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
(ảnh minh họa: tìm được cổ vật có được chiếm giữ không?)
2. Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;
b) Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy; nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.
Như vậy khi phát hiện ra chiếc bình ngọc mà không biết ai là người sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp theo quy định tại khoản 1 điều này. Nếu đồ vật được xác định là tài sản thuộc di tích lịch sử văn hoá thì thuộc về Nhà nước. Người tìm thấy được hưởng một khoản tiền theo quy định tại Điều 16 Nghị định 96/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc xử lý tài sản bị chôn giấu, bị chìm đắm được phát hiện hoặc tìm thấy thuộc đất liền, các hải đảo và vùng biển Việt Nam, cụ thể là: Phần giá trị của tài sản đến 10 triệu đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 30%; trên 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 15%; trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 7%; trên 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 1%; trên 10 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 0,5%.
Nếu tài sản không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử văn hoá thì được xử lý theo quy định tại khoản 3 điều này.
Trên đây là tư vấn của Luật Huy Thành để Quý Khách hàng tham khảo. Các vấn đề khác cần tham vấn hoặc hỗ trợ pháp lý, đề nghị Quý Khách hàng liên hệ với Luật Huy Thành qua Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 19006179 hoặc qua mobile để yêu cầu dịch vụ của Luật sư Nguyễn Văn Thành - Luật sư Giỏi tại Hà Nội: 0909 763 190.
Bạn tham khảo bài viết liên quan TẠI ĐÂY