Phân tích pháp lý vụ Đôi tình nhân dàn cảnh cướp xe

05/01/2018

1. Nội dung vụ việc
Theo thông tin ban đầu, vào tối ngày 18/11/2014, đôi tình nhân Huỳnh Tấn Đạt (18 tuổi, quê Cà Mau) và Trần Thị Hạnh (17 tuổi, quê An Giang) không có tiền tiêu xài nên đã lên kế hoạch đi cướp kiếm tiền. Nạn nhân hướng tới là chị D (chủ tiệm uốn tóc, nơi trước đây Hạnh đã từng có thời gian học nghề).

Để thực hiện kế hoạch cướp, Hạnh và Đạt lên kịch bản rủ chị D đi xem bói và được chị D đồng ý chạy xe tay ga đến điểm hẹn. Do 3 người nên chị D để Đạt cầm lái chở đi xem bói. Đạt chạy xe vào đoạn đường xấu và ít người qua lại thuộc khu phố Bình Phúc (xã Bình Chuẩn, thị xã Dĩ An). Đạt lấy cớ đường xấu nên thả Hạnh xuống đi bộ chở chị D qua hết đoạn đường này. Khi tới khu vực vắng người Đạt nói hư xe và nói chị D xuống kiểm tra. Chị D vừa bước xuống xe thì Đạt phóng xe chạy mất hút. Chị D quay lại tìm Hạnh thì cũng không thấy đâu.
Ngay sau đó, sự việc được trình báo Công an. Sau 2 giờ cướp xe, Đạt và Hạnh đã bị bắt khi cả hai chưa kịp tẩu tán tài sản cướp được.
2. Nhận định pháp lý
Theo nhận định, Đạt và Hạnh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội cướp giật tài sản” theo điều 136 Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 136 quy định:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị…”.
Đặc trưng của tội cướp giật tài sản là yếu tố bất ngờ, công khai khi thực hiện hành vi. Người phạm tội thực hiện hành vi một cách nhanh chóng, chiếm đoạt tài sản ngoài tầm kiểm soát của người quản lý tài sản; không giấu giếm hành vi của mình. Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý, mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc để định tội danh.

(đôi tình nhân dàn cảnh cướp xe)
Trong vụ việc, khi chạy xe tới khu vực vắng người, Đạt nói xe bị hư và nói chị D xuống kiểm tra. Chị D vừa bước xuống xe thì Đạt phóng xe chạy đi mất hút. Có thể thấy, khi chị D bước xuống xe thì Đạt liền phóng xe chạy đi được coi là yếu tố bất ngờ, nhanh chóng thực hiện hành vi của Đạt. Thông thường, khi vừa bước xuống xe, một người chưa thể làm chủ được tình hình ngay lập tức (phải giữ thăng bằng, ổn định…); cho nên việc kiểm soát được chiếc xe thời điểm đó nằm ngoài khả năng của chị D. Cộng với hành vi của Đạt quá nhanh chóng, bất ngờ nên chiếc xe máy đã bị Đạt chiếm đoạt được dễ dàng. Đạt và Hạnh thực hiện hành vi với lỗi cố ý, chủ ý mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Như vậy, có đủ yếu tố để có thể truy cứu Đạt và Hạnh về “tội cướp giật tài sản” theo Điều 136 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, trong vụ việc có thể nhận thấy Đạt và Hạnh thực hiện hành vi phạm tội “có tổ chức”. Điều này đã được thể hiện rõ là Đạt và Hạnh đã lên kế hoạch chuẩn bị cho việc đi cướp, nạn nhân hướng tới là chị D (chủ tiệm uốn tóc, nơi trước đây Hạnh đã từng có thời gian học nghề). Có sự cấu kết chặt chẽ, phân công nhiệm vụ khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của hai đối tượng (Đạt và Hạnh rủ chị D đi xem bói; khi đến đoạn đường xấu thì thả Hạnh xuống đi bộ, Đạt tiếp tục chở chị D đi qua đoạn đường xấu đó rồi thực hiện hành chi chiếm đoạt xe như nêu trên; chị Hạnh quay lại thì Hạnh cũng biến mất…). Như vậy, ít nhất Đạt và Hạnh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung theo điểm a) là phạm tội “có tổ chức”.
Cơ quan điều tra cũng cần xác định giá trị cụ thể chiếc xe tay ga của chị D để có thể xác định được khung hình phạt tương ứng của Điều 136. Ví dụ từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng thì áp dụng khoản 2; từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng thì áp dụng khoản 3; từ 500 triệu đồng trở lên thì áp dụng khoản 4…
Khi xác định mức hình phạt thì phải lưu tâm về độ tuổi của Đạt và Hạnh để áp dụng mức hình phạt tương ứng. Cụ thể, Đạt đã đủ 18 tuổi thì phải chịu mức hình phạt như đối với người đã thành niên. Còn Hạnh mới 17 tuổi thì sẽ không áp dụng xử phạt tù chung thân hoặc tử hình theo khoản 5 Điều 69 Bộ luật hình sự. Nếu áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Hạnh thì thực hiện theo khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự:
“1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Các vấn đề khác cần tham vấn hoặc hỗ trợ pháp lý, đề nghị Quý Khách hàng liên hệ với Luật Huy Thành qua Tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 1900 6179 hoặc qua mobile để yêu cầu dịch vụ của Luật sư Nguyễn Văn Thành - Luật sư Giỏi tại Hà Nội: 0909 763 190.

Bạn tham khảo bài viết liên quan TẠI ĐÂY

bttop